Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu

by admininss
Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu

1. Tiêu chuẩn bảo hộ

+ Một dấu hiệu muốn được coi là nhãn hiệu hàng hóa phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã được chuẩn hòa toàn thế giới. Nhìn chung, có hai loại điều kiện khác nhau cần phân biệt.

+ Điều kiện thứ nhất lien quan tới chức năng cơ bản của nhãn hiệu hàng hóa, đó là chức năng phân biệt các sản phẩm hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này với các sản phậm hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Do vậy, một nhãn hiệu phải độc đáo hoặc có khả năng phân biệt các sản phẩm khác nhau.

+ Điều kiện thứ hai lien quan đến tới các hậu quả nhãn hiệu hàng hóa có thể gây ra nếu nhãn hiệu hàng hóa có những đặc tính gây hiểu lầm hoặc vi phạm tới trật tự công cộng và đạo đưc xã hội.

+ Hai điều kiện này trên thực tế được quy định trong luật quốc gia về nhãn hiệu hàng hóa. Chúng cũng được quy định tại Điều 6quinquies Bcủa Công ước Paris rằng các nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ theo Điều 6quinquies A chỉ có thể từ chối đăng ký khi “chúng không có bất kỳ yếu tố độc đáo nào” hoặc “chúng trái với trật tự công cộng và đạo đức xã hội và mang tính chất lừa dối công chúng“.

2. Điều kiện về tính độc đáo

+ Một nhãn hiệu hàng hóa, để thực hiện được chức năng của nó, phải có tính độc đáo. Một nhãn hiệu không độc đáo không thể giúp người tiêu dùng nhận ra hàng hóa mình muốn tìm, lựa chọn. Từ “táo” hoặc hình quả táo không thể được đăng ký cho mặt hàng táo, nhưng đối với hàng hóa là máy tính thì nó lại rất độc đáo. Điều đó cho thấy tinh độc đáo phải được đánh giá trong mối quan hệ với hàng hóa gắn nhãn hiệu đó.

+ Việc xem xét liệu một nhãn hiệu hàng hóa có độc đáo hay không phụ thuộc vào hiểu biết của  người tiêu dùng, hoặc ít nhất là vào những người mà dấu hiệu nhắm tới.
Một dấu được coi là độc đáo đối với hàng hóa mang dấu hiệu đó khi dấu hiệu này được những người tiêu dùng nhận ra như dấu hiệu nhận rằng hàng hóa nguồn gốc xuất phát từ một cơ sởkinh doanh nhất định, hoặc là dấu hiệu này được nhận biết như vậy.

+ Tính độc đáo của một dấu hiệu không tuyệt đối và bất biến. Phụ thuộc vào người sự dụng hoặc các bên thứ ba, tính độc đáo có xây dựng được, phát triển hay thậm chí ngược lại bị đánh mất. Hoàn cảnh (có thể quá trình lâu năm hoặc có cường độ và rộng khắp) của việc sử dụng dấu hiệu phải được xét đến khi cơ quan đăng ký có ý  kiến cho rằng dấu hiệu thiếu tính độc đáo cần thiết, nghĩa là được coi như không có tính độc đáo.

+ Tất nhiên, có nhiều cấp độ khác nhau về tính độc đáo, và vấn đề đặt ra là một dấu hiệu phải độc đáo đến mức nào để có thể được đang ký. Trong nội dung này, cần có sự phân biệt một số loại nhãn hiệu tiêu biểu – những nhãn hiệu được tự tạo ra, không có nguồn gốc thực, bằng cách sang tạo, tự ghép,đặt ra không có nghĩa. Một ví dụ nội tiếng cho loại thứ nhất là nhãn hiệu KODAK

+ Nhữnng nhãn hiệu hàng hóa này có thể không phải là thứ giới thị ưa chuộng bởi họ buộc phải dầu tư nhiều hơn vào quảng cáo để giới thiệu chúng với người tiêu dùng. Tuy nhiên, tự than những nhãn hiệu này lại đưa đến việc được hưởng sự bảo hộ rất mạnh.

+ Những từ ngữ như danh từ chung trong ngôn ngữ hằng ngày cũng có thể trở nên rất độc đáo nếu chúng truyền tải một ý nghĩa khôngn liển quan  đến các sản phẩm gắn nhãn hiệu đó. Điều này cũng đúng với trường hợp các yếu tố hình ảnh. Ví dụ các nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếngnhư CAMEL dùng cho thuốc lá (và nhãn hiệu hình ảnh của nó cũng nối tiếng như vậy), nhãn hiệu APPLE nêu trên (cả bắng từ ngữ và hình ảnh) cho máy tính.

+  Giới tiếp thị ưa chuộng những tên nhãn hiệu mà bằng cách nào đó gợi dẫn một sự liên tưởng tích cực về sản phẩm tâm chí người tiêu dùng.Bởi vậy họ sẽ chọn các nhãn hiệu ít nhiều mang tính mô tả. Nếu dấu thuần túy là sự mô tả, nó sẽ không có khả năng phẩn biệt và không thể đăng ký như một nhãn hiệu hàng hóa.

Tuy nhiên, không phải tất cả các dấu hiệu nếu không có nghĩa hoặc là không có liên quan đến sản phẩm được sử dụng đều thiếu tính độc đáo: Có một loại các dấu hiệu trung gian có tính gợi dẫn, liên tưởng về hàng hóa mà chúng được sử dụng, về tính chất, chất lượng, nguộn gốc hoặc các đặc tính bất kỳ của hàng hóa đó, song không thực sự chỉ mang tính mô tả.Các dấu hiệu này có thể được đăng ký.

Trên thực tế,vấn đề quyết định là nhãn hiệu có tính gợi dẫn, liên tưởng hay tính mô tả về hàng hóa theo luật pháp và thẩm quyền quốc gia.

Câu hỏi này phải được xem xét phù hợp với luật và tính đến mọi tình tiết cụ thể của tình huống. Theo nguyên tắc chung, có thể nói rằng một từ miêu tả những hàng hóa liên quan mang tính độc đáo nếu nó đã có ý nghĩa phát sinh, nghĩa là mọi người nhận biết được rằng nó là dấu hiệu chỉ ra được hàng hóa mang nhãn hiệu đó là có nguồn gốc từ cở sở kinh doanh nhất định.

+ Trong trường hợp có phân vận rằng liệu dấu hiệu có tính mô tả hay có tính gợi dẫn, liên tưởng, việc đã sự dụng trong kinh doanh trong một thời hạng nhất định nào đó có thể coi là đủ, thõa mản điểu kiện đăng ký.

+ Tuy nhiên, điều kiện càng thiên về mô tả sẽ càng khó chứng minh ý nghĩa phái sinh, và khi đó cần thiết phải có tỉ lệ phần trăm số người tiêu dùng nhận biết được ý nghĩa phái sinh.

3. Không có khả năng phân biệt

+ Nếu một dấu hiệu không có khả năng phân biệt, nó không thực hiện làm nhãn hiệu hàng hóa và dấu sẽ bị đăng ký. Thường thì người nộp đơn không cần chứng minh khả năng phân biệt. Cơ quan đăng ký sẽ chứng minh việc không khả năng phân biệt trong trường hợp có lưỡng lự, không chắc chắn thì vẫn nên cho đăng ký nhãn hiệu.

Luật nhãn hiệu hàng hóa tại một số nước yêu cầu người nộp đơn có nghĩa vụ chứng minh rẳng nhãn hiệu của mình phải được đăng ký. Tuy nhiên, thông lệ này có thể coi là khắt khe, và đôi khi nó cản trở việc đăng ký những nhãn hiệu hàng hóa có thể chứng minh được là có khả năng phân biệt hàng hóa của chủ sở hữu nhãn hiệu.

Xu hướng hiện nay như được phản ánh tại Điều 3 Chỉ thị chung EC và Luật Mẫu, rõ ràng coi việc không có khả năng phân biệt là một lý do từ chối đơn xin đăng ký một nhãn hiệu.

+ Tiêu chuẩn nào áp dụng cho việc từ chối đăng ký do không có khả năng phân biệt?

4. Tên gọi chung

+ Một dấu hiệu có đặc điểm chung khi nó định nghĩa một nhóm, loại hay một mặt , ngành hàng. Tên gọi thông thường của loại hàng hóa là thiết yếu cho giới kinh doanh cũng như người tiêu dùng không được phép độc quyền một thuật ngữ chung như vậy.

+ Ví dụ về các tên gọi chung như “đồ đạc” (chỉ đồ đạc nói chung và cũng chỉ bàn, ghế…) và “ghế” (chỉ các loại ghế). Hay một số ví dụ khác như “đồ uống“, “cà phê” và “cà phê tan” cho ta thấy có các nhóm loại có thể rộng hay hẹp hơn, và các nhóm hàng hóa, tất cả có cùng đặc điểm là có cùng tên gọi chung được dùng để gọi, chỉ hàng hóa cùng nhóm loại.

+ Các dấu hiệu trên không có khả năng phân biệt, một số hệ thống tư pháp cho rằng, thậm chí nếu chúng được sử dụng một cách rộng rãi với đến cường độ có được nghĩa phải phái sinh vẫn không thể đăng ký, do xét đến nhu cấu thiết yếu của giới kinh doanh cần sử dụng chúng, không thể cho phép độc chiếm. Vì những lý do này, Tòa án Tối cao Delhi – Ấn Độ vào năm 1972 đã từ chối đăng ký nhãn hiệu JANTA, khi theo tiếng Hindi từ này có nghĩa là giá rẻ.

5. Các dấu hiệu mô tả

+ Các dấu hiệu mô tả là các dấu hiệu kinh doanh dùng đề chỉ chủng loại, chất lượng, công dụng, giá trị, nơi xuất xứ, thời gian sản xuất hay bất kỳ tính chất nào khác của hàng hóa mà dấu hiệu có ý định sử dụng hoặc đang được sử dụng.

+ Theo định nghĩa về khả năng phân biệt nêu trên, việc xét nghiệm được tiến hành nhằm xác định liệu người tiêu dùng có thể xem dấu hiệu như dẫn chiếu về nguồn gốc của hàng hóa (dấu hiệu phân biêt) hay liệu họ coi dấu hiệu như sự chỉ dẫn về các đặc tính của hàng hóa hay xuất xứ địa điểm (dấu hiệu mô tả).

Thuật ngữ “người tiêu dùng” được sử dụng ở đây như là cách gọi vắn tắt nhóm người hữu quan cần được xem xét trong từng trường hợp cụ thể, đó là với người mà dấu hiệu nhắm tới (và trong một số trường hợp là những người đã tiếp xúc với dấu hiệu).

+ Do quyền chính đáng của những nhà kinh doanh trong việc sử dụng môt tên gọi có thể được sử dụng là cơ sở bổ sung khi tiến hành xét nghiệm xem liệu người tiêu dùng coi dấu hiệu như sự dẫn chiếu về nguồn gốc hay là chỉ dẫn các đặc tính hàng hóa.

Tuy nhiên, không nên coi là lý do để đưa ra quyết định từ chối đăng ký một nhãn hiệu khi không có cơ sở chắc chắn rằng người tiêu dùng có thể đã coi thuật ngữ này mang tính mô tả hay không.

6. Các dấu hiệu không có khả năng phân biệt khác

+ Các dấu hiệu có thể không có khả năng phân biệt vì nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn như một đơn giản hoặc đơn thuần mang tính minh họa hoặc mang đặc tính trang trí có thể không hề gây chú ý của người tiêu dùng, chỉ dẫn về nguồn gốc hàng hóa, chỉ đơn thuần là phần minh họa choo bao bì của hàng hóa.

+ Một ví dụ khác (đối với từ ngữ) là một khẩu hiệu quảng cáo dài dòng giới thiệu hàng hóa với người tiêu dùng, thậm chí khi được ghi trên bao bì cũng qua rối rắm để người tiêu dùng có thể hiểu đó một dẫn chiếu về nguồn gốc của sản phẩm.

+ Trên thực tế, các cơ quan chức năng phải giải quyết các tình huống kinh điển được luật pháp nhiều nước từ chối bảo hộ và được đề cập dưới đây.

7. Dẫn chiếu về xuất sứ địa lý

+ Các dẫn chiếu xuất xứ địa lý (ngược về nguồn gốc hàng hóa theo chức năng chỉ dẫn nguồn gốc) về cơ bản là không có khả năng phân biệt. Chúng gợi cho người tiêu dùng một liên tưởng tới tên địa lý, chỉ dẫn về nơi sản xuất hàng hóa hoặc các thành phần sử dụng trong sản phẩm, hoặc, phụ thuộc vvào hoàn cảnh thực tế, chỉ ra các đặc tính của hàng hóa gắn với xuất xứ của chúng.

+ Để sự liên hệ được tác động gợi cho người tiêu dùng, ví trí địa lý này, tất nhiên, ít nhất phải được người tiêu dùng biết đến. Ví vậy, các dấu hiệu về địa danh lạ, không được biết đến là những dấu hiệu có khả năng phân biệt. Dẫn chiếu tới vùng không ai cho rằng hàng hóa liên quan được sản xuất tại đó cũng coi là có khả năng phân biệt.

+ Thậm chí nếu một vùng địa lý được người tiêu dùng biết đến, một dấu hiệu chiếu tới địa danh này có thể có khả năng phân biệt hoặc trở nên có khả năng phân biệt nếu tại đây không có người sản xuất hoặc thương gia hoạt động trong lĩnh vực đó, không có những đối thủ cạnh tranh trong tương lai.

Related Posts

Leave a Comment