Nội dung bài viết
Căn cứ theo Điều 58. Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ – Luật SHTT phát biểu rằng :
1. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây
- a) Có tính mới;
- b) Có trình độ sáng tạo;
- c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
2. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
- a) Có tính mới;
- b) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
– Theo quy định này, một giải pháp kỹ thuật có thể được cấp 02 loại bằng độc quyền:
-
Một là bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng 03 điều kiện bao gồm:
- có tính mới
- có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp
-
Hai là được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu đáp ứng 02 điều kiện bao gồm :
- Có tính mới
- Có khả năng áp dụng công nghiệp
Sự khác biệt giữa hai văn bằng bảo hộ này là thời hạn bảo hộ của nhau, cụ thể bằng độc quyền sáng chế có thời hạn bảo hộ là 20 năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký, còn bằng độc quyền giải pháp hữu ích có thời hạn bảo hộ là 10 năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký.
Như vậy, thế nào là một giải pháp kỹ thuật có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp :
Căn cứ theo Điều 60. Tính mới của sáng chế – Luật SHTT
Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
Tính mới là một trong số những yêu cầu quan trọng nhất để được bảo hộ sáng chế. Một sáng chế phải có tính mới. Nói cách khác, sáng chế phải chưa được người khác biết đến hoặc sử dụng trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
Một sáng chế hoặc việc công bố trước sáng chế tương tự sẽ làm mất tính mới của sáng chế (ngăn cản sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc khiến cho bằng độc quyền sáng chế bị hủy bỏ sau đó). Về cơ bản, nếu sáng chế không đáp ứng được điều kiện tiên quyết này sẽ không được bảo hộ.
Căn cứ theo điều Điều 61. Trình độ sáng tạo của sáng chế
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Yêu cầu này đòi hỏi sáng chế phải không hiển nhiên đói với người có trình độ hiểu biết trung bình trong lĩnh vực. Về cơ bản, tính hiển nhiên có nghĩa là một sản phẩm hoặc quy trình sẽ không được bảo hộ sáng chế nếu người bất kỳ có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực tương ứng có thể kết hợp các thông tin đã biệt lại với nhau và đạt được kết quả tương tự.
Thời điểm để xác định trình độ sáng tạo là khác nhau giữa các hệ thống pháp luật, nhưng nhìn chung thường là tại thời điểm nộp đơn hoặc thời điểm tạo ra sáng chế. Và người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng là người được giả định, cụ thể tại Việt Nam là những thẩm đinh viên sáng chế của Cục SHTT.
Sự giả định này dựa trên cơ sở là thẩm định viên sáng chế là người có đầy đủ động cơ để tìm kiếm các thông tin, cơ sở dữ liệu sáng chế và là người có thể đọc hiểu các thông tin giải pháp kỹ thuật trong tập tài liệu sáng chế mà họ tìm được, do đó thẩm định viên cũng chính là người được xem là người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Căn cứ theo Điều 62. Khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế
Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
Sáng chế sẽ không được bảo hộ nếu không thực hiện được chức năng nhất định, đồng nhất và có kết quả được lặp đi lặp lại ổn định. Các thông tin về bản chất của giải phải được trình bày một cách rõ ràng, đầy đủ đến có thể tạo ra, sản xuất ra hoặc có thể sử dụng, khai thác hoặc thực hiện được giải pháp đó.
Ngoài ra, việc tạo ra, sản xuất ra, sử dụng, khai thác hoặc thực hiện giải pháp kỹ thuật có thể được lặp đi lặp lại với kết quả giống nhau